Please wait...

Hotline:

Bộ 2 hộp muối ngâm chân Bảo Nhiên

150.000 đ

230.000 đ tiết kiệm 34%

Thành phần - Vắc xin sống nhược độc phòng ngừa hội chứng hô hấp và sinh sản trên heo (PRRS). - Một liều 2-ml trong thành phần vắc xin chứa

MÔ TẢ SẢN PHẨM

Thành phần
Vắc xin sống nhược độc phòng ngừa hội chứng hô hấp và sinh sản trên heo (PRRS).
Một liều 2-ml trong thành phần vắc xin chứa:

  • chủng PRRS-ATCC VR 2332:  ít nhất 104.9TCID50  (Liều gây nhiễm 50% mô nuôi cấy)  
  • Nước pha: nước vô trùng (2 ml một liều) 

Đối tượng
Heo
Chỉ định
Tạo miễn dịch chủ động trên đàn heo khỏe mạnh trong đàn dương tính với PRRS lúc 3 tuần tuổi, một giải pháp phòng ngừa giúp giảm triệu chứng lâm sàng thể hô hấp và sinh sản do PRRS
    
          Thời điểm có miễn dịch:

  • Heo con:  Trong thử nghiệm công cường độc đồng chủng, miễn dịch bảo hộ xuất hiện từ 7 ngày sau tiêm phòng. Kết quả từ thử nghiệm công cường độc dị chủng sử dụng với virus PRRS chủng châu Âu cho thấy sự xuất hiện của miễn dịch chủ động không trễ hơn 43 ngày sau tiêm phòng (thời điểm công cường độc sớm nhất được sử dụng).
  • Nái:  kết quả từ thử nghiệm công cường độc với virus PRRS chủng Bắc Mỹ chỉ ra đàn nái và hậu bị có miễn dịch chủ động khoảng 40 ngày sau tiêm phòng.

          Độ dài miễn dịch:

  • Heo con:  Trong thử nghiệm công cường độc đồng chủng, miễn dịch kéo dài ít nhất 110 ngày.
  • Nái:  Trong thử nghiệm công cường độc dị chủng với virus PRRS chủng châu Âu, miễn dịch kéo dài ít nhất 154 ngày.

Chống chỉ định
Vắc xin không sử dụng trên đàn âm tính với PRRS.
Vắc xin không dùng cho đực giống mà tinh được khai thác để dùng cho trại âm tính.
Không sử dụng trên heo đang bị stress hay bị ảnh hưởng bởi corticosteroids hoặc các tác nhân gây suy giảm miễn dịch khác.

Cảnh báo đặc biệt
Trên đàn heo khỏe mạnh, sự nhân lên và bài thải virus có thể xuất hiện trong khoảng 3 tuần sau lần chủng ngừa đầu tiên. Heo có đáp ứng miễn dịch kém, thời gian virus nhân lên và bài thải có thể dài hơn.

Heo con sinh ra từ nái đã chủng ngừa, hay có tiếp xúc với virus vắc xin trong giai đoạn cuối của kỳ mang thai, có thể mang virus vắc xin và bài thải ra ngoài trong vài tuần đầu sau sinh. Mặc dù virus vắc xin không gây ra các triệu chứng lâm sàng trên những heo con này trong điều kiện thử nghiệm, nhưng những heo con này và cả những heo được chủng ngừa với PRRS (cả heo không chủng ngừa trong đàn có tiêm phòng với Ingelvac® PRRS MLV ) đều không được đưa vào trại âm tính vì chúng có nguy cơ bài thải virus. Dưới điều kiện như vậy, sự xuất hiện các triệu chứng của PRRS do việc đưa virus vắc xin vào không thể bị loại bỏ.

Tùy thuộc vào phương cách quản lý, Ingelvac® PRRS MLV thời gian virus vắc xin có thể tồn tại trong đàn thay đổi ngay cả sau khi việc chủng ngừa chấm dứt. Đặc biệt, trong các chương trình loại bỏ đàn, thời gian virus vắc xin có thể bài thải ra ngoài từ nhóm heo chủng ngừa cuối cùng phải được tính từ khi đưa nhóm heo nhạy cảm, không chủng ngừa PRRS đầu tiên vào. Heo từ đàn đã được chủng ngừa trước đó với Ingelvac® PRRS MLV chỉ nên được đưa vào đàn âm tính nếu việc truyền lây virus vắc xin (và virus hoang dã) có thể bị loại bỏ bằng các quy trình chẩn đoán chẳng hạn như phân lập virus hay các test huyết thanh học nhằm chứng minh không có sự hiện diện của virus PRRS hay kháng thể PRRS trong máu hay các test PCR nhằm chứng minh không phát hiện các mảnh gen virus trong máu hay hạch hạnh nhân.

Trên heo nhạy cảm, không chủng ngừa vắc xin PRRS mà có biểu hiện lâm sàng hay cận lâm sàng của các mầm bệnh khác, thì các triệu chứng này sẽ trở nên tồi tệ hơn khi tiêm Ingelvac® PRRS MLV.

Cảnh báo đặc biệt khi sử dụng trên heo
Tiêm phòng trên heo khỏe mạnh, được nghỉ ngơi.
Không sử dụng trên đàn có heo được chuyển đến từ trại âm tính với PRRS.
Hiệu quả của chương trình chủng ngừa tùy thuộc vào một số yếu tố đặc biệt, bao gồm việc quản lý đàn và đặc điểm của mầm bệnh. Do đó, việc lập kế hoạch tiêm phòng vắc xin PRRS, cần đặc biệt quan tâm đến các đặc điểm của virus:

  1. Trên nái, virus PRRS gây nhiễm bên trong tử cung và phôi thai có thể xuất hiện từ khoảng sau ngày thứ 70 của kỳ mang thai. Khi mới bắt đầu chủng ngừa thì hiệu quả trên đàn nái đã nhiễm virus PRRS trước đó có thể không thấy rõ ràng, cho dù đó là quy trình chủng ngừa toàn đàn, triệu chứng lâm sàng vẫn có thể xuất hiện tới 8 tuần hoặc ngay sau khi bắt đầu tiêm phòng. Việc chủng ngừa bị hạn chế trên nái không mang thai, các triệu chứng lâm sàng có thể hiện diện đến 5 tháng như là khoảng thời gian cho toàn bộ đàn nái có đầy đủ miễn dịch.
  2. Heo con được bảo hộ bởi kháng thể mẹ truyền có thời gian đủ dài sau khi chủng ngừa trên nái. Do đó vaccine được khuyến cáo tiêm phòng trên những heo con này.
  3. Nếu xem xét đến việc ngừng tiêm vắc xin thì khả năng thú liên tục bị nhiễm bệnh nên được cân nhắc vì điều này đã được chứng minh trong nhiều nghiên cứu khác nhau, mặc dù việc bài thải virus hoang dã không còn xảy ra 2 - 4 tháng sau khi nhiễm ở hầu hết các loài động vật, tuy nhiên ở một số loài, thời gian bài thải có thể kéo dài trong 9 tháng.
  4. Sau khi chủng ngừa, thời gian bài thải virus vắc-xin có thể khác nhau và truyền lây cho heo nhạy cảm hoặc chưa tiêm chủng  Cả virus hoang dã và virus vắc xin đều có khả năng đột biến trên những nhóm heo này. Để giảm thiểu sự nhân lên của virus vắc xin ở thú nhạy cảm, tất cả các con trong đàn được khuyến cáo tiêm phòng nếu không trong những trường hợp nhất định, virus vắc-xin có thể gây ra các triệu chứng lâm sàng ở những con nhạy cảm.

Vắc xin chưa được thử nghiệm trên đực giống, nên không có số liệu về ảnh hưởng của vắc-xin trên khả năng sinh sản.  Khi heo chủng ngừa có thể sẽ bài thải virus vaccin, những con đực giống trong đàn đã được tiêm phòng sẽ có tiếp xúc với virus vaccin.

Các biện pháp phòng ngừa đặc biệt nên được thực hiện bởi người quản lý thuốc thú y
Ingelvac® PRRS MLV không gây nhiễm trên người.  Tuy nhiên, trong trường hợp lỡ tự tiêm, hay đến y tế ngay và đưa cho họ tờ rơi hoặc nhãn sản phẩm.

Phản ứng phụ (tần suất và sự nghiêm trọng)
Trong một số ít trường hợp, các phản ứng sốc như nôn và suy tuần hoàn được ghi nhận ngay sau khi chủng ngừa; cá biệt có thể tử vong. Trong trường hợp có phản ứng như vậy, adrenaline (epinephrine), glucocorticoid và kháng histamin (kết hợp với canxi) được chỉ định dùng.

Sử dụng trên nái mang thai và nuôi con
Vắc xin được dung nạp tốt; không có phản ứng bất lợi nào được báo cáo cho đến nay, ngay cả khi heo nái được tiêm phòng ngay trước khi đẻ hoặc trước phối. Tuy nhiên, việc tiêm chủng cũng giống như bất kỳ những can thiệp khác ở đàn nái sinh sản, đều có thể ảnh hưởng xấu đến khả năng sinh sản ở heo nhạy cảm, đặc biệt là trong khoảng thời gian ba tuần trước hoặc sau phối hoặc ít hơn ba tuần trước đẻ. 

Tương tác với các sản phẩm khác và các dạng tương tác khác
Không có thông tin về sự an toàn và hiệu quả của vắc-xin khi sử dụng đồng thời với bất kỳ sản phẩm thuốc thú y khác. Quyết định sử dụng vắc-xin này trước hoặc sau bất kỳ sản phẩm khác cần thực hiện trên từng trường hợp cụ thể.

Liều lượng và cách dùng
Vắc-xin đông khô được phục hồi với nước pha được cung cấp sẵn.

  • Tiêm bắp với liều 2 ml mỗi con.
  • Việc chủng ngừa được thực hiện từ ba tuần tuổi trở đi trên đàn dương tính với virus PRRS hay có kháng thể PRRS.
  • Để tối ưu hóa kiểm soát PRRS, tất cả heo trong đàn nên có miễn dịch đồng bộ càng sớm càng tốt.

Heo con: Một liều tiêm duy nhất từ ba tuần tuổi trở đi là đủ bảo hộ đến xuất chuồng.
 
NáiNái trong đàn có huyết thanh dương tính có thể được tiêm phòng tại bất kỳ giai đoạn nào của thai kỳ..
          Tiêm chủng có thể liên quan đến chu kỳ sinh sản, trong trường hợp đó nó được thực hiện khoảng 3-4 tuần trước phối, hay một mục tiêu toàn đàn trong chương trình chủng ngừa toàn đàn có thể được sử dụng, trong đó tất cả heo nái mang thai và không mang thai được tiêm mỗi bốn đến (tối đa) năm tháng, chủ yếu phụ thuộc vào áp lực nhiễm bệnh.
 
Để nâng cao miễn dịch đàn, từ đó làm giảm nhanh áp lực nhiễm, khuyến cáo nên tiêm chủng toàn đàn khi mới bắt đầu chương trình tiêm phòng.
 
Hậu bị:   Heo hậu bị nên được chủng ngừa trước khi nhập vào đàn nái và sau đó thì theo các chương trình tiêm chủng giống như trên đàn nái.

Quá liều (triệu chứng, quy trình khẩn cấp, giải độc) 
Thử nghiệm chứng minh rằng heo con ba tuần tuổi, hậu bị và nái đều không có bất kỳ tác dụng phụ nào khi tiêm quá liều hơn mười lần.  Nguy cơ quá liều trong thực tế do đó có thể được bỏ qua.
 
Thời gian ngưng thuốc
Không ngày

Sự tương khắc
Không trộn lẫn với bất kỳ vắc-xin khác, sản phẩm miễn dịch hoặc các sản phẩm thuốc thú y khác.

Lưu ý đặc biệt về bảo quản
Bảo quản lạnh và vận chuyển (2°C - 8°C).
Không để đông đá.
Tránh ánh sáng.

Thông tin bổ sung:
 Virus PRRS thể hô hấp gây bệnh chủ yếu và thiệt hại kinh tế trong giai đoạn thịt. Nghiên cứu thực tế cho thấy, heo được tiêm phòng có cải thiện đáng kể trong kết quả chăn nuôi (tăng trọng hàng ngày cao hơn và trọng lượng giết mổ cao hơn) cho đến khi kết thúc giai đoạn thịt; Một liều tiêm là đủ bảo hộ đến khi giết thịt.

Miễn dịch kéo dài ít nhất 110 ngày ở heo con.
 
Virus PRRS thể sinh sản gây thiệt hại lớn đến năng suất heo nái. Nhiều nghiên cứu thực tế cho thấy, heo đã chủng ngừa tồn tại trong môi trường nhiễm virus vẫn có cải thiện rõ rệt khả năng sinh sản (ít bị lên giống lại, nhiều heo sơ sinh còn sống và nhiều heo cai sữa hơn) cũng như giảm truyền lây virus qua nhau thai; Mục đích của việc tiêm phòng với Ingelvac® PRRS MLV là để đạt được miễn dịch cao thống nhất nhằm chống lại virus PRRS trong đàn; Thực tế đã chỉ ra rằng áp lực nhiễm trong đàn đang bệnh cấp tính có thể được giảm tốt hơn nếu lần tái chủng ngừa đầu tiên được thực hiện sau 4 - 6 tuần  Nhiều báo cáo thành công của chương trình này đã được công bố.
Miễn dịch kéo dài ít nhất 22 tuần ở heo nái.

Thong ke